Lăng Tự Đức là một địa điểm luôn nằm trong danh sách viếng thăm của du khách khi du lịch tại Huế, bởi Lăng Tự Đức không chỉ là một quần thể công trình kiến trúc nền nã và tinh tế mang đậm dấu ấn văn hóa lịch sử mà còn là một minh chứng cho cuộc đời của một vị vua đã từng đứng đầu một quốc gia. Nhằm hỗ trợ quý du khách biết thêm thông tin về địa điểm đặc biệt này, Hành Hương Việt xin mời quý du khách theo dõi bài viết dưới đây.
Mục Lục
1. Lịch sử xây dựng Lăng Tự Đức
1.1. Một số thông tin về vua Tự Đức
Vua Tự Đức là một vị vua nổi tiếng thời nhà Nguyễn, có tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm là con trai thứ của vua Thiệu Trì. Sử sách có ghi, theo lẽ thường tình ngai vàng phải được trao cho người con cả trong hoàng tộc tức Hồng Bảo nhưng lúc bấy giờ Hồng Bảo không đủ tư chất, tầm nhìn hạn hẹp, tính cách thất thường lại ham chơi nên vua cha đã giao ngôi báu cho Tự Đức đảm nhận.
Không may thay, Tự Đức là một vị vua thi sĩ tính cách hiền lành, đơn thuần yêu thích cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên thanh bình, yên ả. Do đó, trong suốt quá trình tại vị, phải đối diện với những đại sự phức tạp của quốc gia, chiến tranh xâm lược, nội bộ triều đình mâu thuẫn, anh em lục đục bất hòa, Tự Đức đã vô cùng khốn khổ và bi quan. Tuy vậy, ông là vị vua có thời gian trị vì dài nhất lên đến 36 năm từ năm 1847 đến năm 1883 trong 13 đời vị vua triều Nguyễn.
Ông không có con cái, cơ thể yếu ớt lại hay suy nhược ốm đau nên ông đã hạ lệnh cho xây Lăng Tự Đức. Lăng được xây phần để làm chốn cho ông nương náu, thư giãn sau những buổi thiết triều mệt mỏi, lánh xa việc triều chính phức tạp đa đoan, phần là để làm nơi an nghỉ nếu không may ông đột ngột băng hà.
1.2. Lăng Tự Đức được xây dựng vào năm nào?
Để tránh xa việc triều chính và thư thái tinh thần, Vua Tự Đức đã hạ lệnh xây dựng Lăng Tự Đức. Vào năm 1864, Lăng Tự Đức chính thức được khởi công với số lượng binh lính tham gia xây dựng lên đến 5 vạn người. Khoảng thời gian đầu, Lăng có tên là Vạn Niên Cơ nhưng sau cuộc Loạn Chày Vôi, ông đã cho đổi tên thành Khiêm Cung vào năm 1866. Khiêm Cung chính thức hoàn thành vào năm 1873 và cho đến sau khi vua Tự Đức băng hà, Khiêm Cung đã được đổi tên thành Khiêm Lăng hay mọi người vẫn gọi Lăng Tự Đức.
2. Lăng Tự Đức nằm ở đâu tại Huế?
Lăng Tự Đức là một quần thể kiến trúc được xây dựng giữa rừng thông bạt ngàn trong một thung lũng hẹp, bên phải Đồi Vọng Cảnh, cách trung tâm Cố đô Huế khoảng 8km. Lăng Tự Đức có địa chỉ cụ thể tại làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế.
3. Cấu trúc đặc biệt bên trong lăng Tự Đức
Lăng Tự Đức là một trong những công trình lăng tẩm đẹp nhất triều đình nhà Nguyễn. Quần thể kiến trúc Khiêm Lăng có lối kiến trúc cầu kỳ, tinh xảo, phong cảnh núi sông hữu tình, thơ mộng vô cùng phù hợp với tâm hồn thi sĩ của vua Tự Đức.
Quần thể kiến trúc Khiêm Lăng nằm trong một vòng La thành rộng khoảng 12ha với gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ khác nhau phân bố theo từng cụm trên những thế đất chênh lệch cao thấp khoảng 10m. Lăng gồm có hai khu vực chính, hai khu vực này song song với nhau lấy núi Giáng Khiêm làm Tiền án, núi Dương Xuân làm Hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm làm yếu tố Minh Đường. Điều đặc biệt ở Lăng Tự Đức chính là các công trình trong Lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm đặt tên gọi: Cửa Vụ Khiêm, Khiêm Cung Môn, Chí Khiêm Đường, hồ Lưu Khiêm, Xung Khiêm Tạ, Dũ Khiêm Tạ, điện Hòa Khiêm…
3.1. Khiêm Cung Môn
Khiêm Cung Môn được thiết kế theo kết cấu hai tầng, vọng lâu nằm trên nền cao, cùng một hành với Dũ Khiêm Tạ. Khiêm Cung Môn là khu vực được vua sử dụng để nghỉ ngơi khi đến Khiêm Cung lúc bấy giờ. Trung tâm là điện Hòa Khiêm, là nơi làm việc của vua Tự Đức thuở sinh thời, ngày nay là nơi để thờ tự vua Tự Đức và hoàng hậu.
3.2. Điện Lương Khiêm
Điện Lương Khiêm là khu vực phía sau điện Hòa Khiêm. Đây là nơi nghỉ ngơi, thưởng trà của vua Tự Đức. Ngày sau, Điện Lương Khiêm được sử dụng làm nơi thờ cúng mẹ của vua Tự Đức – bà Từ Dũ. Phía bên phải của Điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm Lương nơi lưu trữ và cất giữ ngự dụng.
3.3. Minh Khiêm Đường
Phía bên trái điện Lương Khiêm là nhà hát Minh Khiêm hay Minh Khiêm Đường để vua Tự Đức xem hát. Các cột trong Minh Khiêm Đường đều được chạm khắc tinh xảo với hoa văn cầu kỳ nổi bật. Ngày nay Minh Khiêm Đường là nhà hát cổ nhất trong 4 nhà hát được xây dựng thời các Vua nhà Nguyễn, có giá trị rất cao về nghệ thuật kiến trúc và họa tiết trang trí.
3.4. Đảo Tịnh Khiêm
Trong quần thể kiến trúc Lăng Tự Đức, Đảo Tịnh Khiêm là mảnh đất để trồng hoa và nuôi thú của nhà vua. Vua Tự Đức thường đến đây để thưởng thức những thú vui tao nhã như thưởng hoa, làm thơ, đọc sách. Đặc biệt, ở khu vực đảo Tịnh Khiêm có kiến trúc vô cùng độc đáo, đó là một con kênh dài với 3 cây cầu bắc ngang qua dẫn đến đồi thông xanh mướt, trong lành.
3.5. Nhà Tạ dựng trên mặt nước
Đây là hai công trình dựng trên mặt nước phục vụ các hoạt động giải trí, gần gũi với thiên nhiên của nhà vua, bao gồm Xung Khiêm Tạ tức nơi nhà vua nghỉ ngơi, hóng mát, làm thơ, thưởng thức nghệ thuật và Dũ Khiêm Tạ tức bến thuyền dành cho nhà vua khi ngao du thưởng cảnh ở hồ Lưu Khiêm. Đây là hai công trình kiến trúc đặc biệt của tổng thể kiến trúc Lăng vua Tự Đức nói riêng, Quần thể di tích Cố đô Huế nói chung.
3.6. Bia Khiêm Cung Ký
Bia Khiêm Cung Ký là tấm bia sở hữu nhiều cái nhất trong số công trình “bia mộ” tại Việt Nam. Tấm bia có số lượng văn tự nhiều nhất ở Việt Nam với 4.935 chữ Hán khắc trên cả hai mặt bia. Đồng thời, Khiêm Cung Ký cũng là tấm bia có kích thước đồ sộ cùng trọng lượng lớn nhất trong các bia cùng loại trong lăng hoàng đế thời triều đình nhà Nguyễn. Đây còn là tấm bia duy nhất 1 hoàng đế tự viết ra cho mình. Vào năm 2015, Bia Khiêm Cung Ký được công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam.
3.7. Khu Lăng Mộ Vua Tự Đức
Đi qua khu vực tẩm điện lăng Tự Đức là khu lăng mộ. Trước tiên là Bái Đính với hai đầu tượng biểu trưng cho quan văn và quan võ. Tiếp đến là Bi Đình có tấm bia bằng đá nặng 20 tấn có khắc bài Khiêm Cung Ký. Nằm trên Tiểu Khiêm Trì là Bửu Thành bằng gạch, trung tâm là ngôi mộ của vua Tự Đức. Tiếp đến là khu vực không kém phần đặc biệt là Bổi Lăng, nơi yên nghỉ của vị vua thứ 7 của Triều Nguyễn – vua Kiến Phúc.
4. Giá trị lịch sử văn hóa của Lăng Tự Đức
Lăng Tự Đức không chỉ là một công trình kiến trúc đẹp nhất công trình lăng tẩm ở thế kỉ 19 mà còn là một bức tranh sơn thủy tuyệt diệu. Vào ngày 11-12-1993, Lăng Tự Đức (còn gọi là Khiêm Lăng) đã được UNESCO là công nhận là di sản văn hóa thế giới.
5. Lời kết
Với những thông tin cụ thể trên Hành Hương Việt kính chúc quý du khách có một chuyến đi đầy thư thái và thú vị khi đến với công trình kiến trúc lăng tẩm đẹp nhất thế kỉ 19 – Lăng Tự Đức.
Xem thêm: Đảo Phú Quốc – “Đảo Ngọc” của du lịch của Việt Nam
Bài viết liên quan: